Sunday, April 9, 2017

Vũng Tàu Xưa và Nay (Hải đăng Vũng Tàu)



Thành phố Vũng Tàu trước năm 1913

Hải đăng Vũng Tàu là hải đăng tọa lạc trên đỉnh núi Nhỏ (hay còn gọi là núi Tao Phùng), thuộc phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam. Hải đăng Vũng Tàu được người Pháp xây dựng vào năm 1862 nhằm mục đích chỉ đường, báo hiệu cho các tàu thuyền qua lại, nằm ở độ cao là 149m so với mực nước biển. Đến năm 1913, người Pháp xây lại ngọn hải đăng này, dời độ cao ngọn hải đăng từ độ cao 149m lên đến độ cao 170m. Hải đăng Vũng Tàu là một trong những hải đăng cổ xưa nhất Việt Nam và Đông Nam Á.
 
Núi Tao Phùng Trước 1975 (1968)
 
 Núi Tao Phùng Sau 1975 (2014)
Hải đăng Vũng Tàu được xem như là biểu tượng của thành phố biển Vũng Tàu. Kiến trúc ngọn hải đăng là một tháp hình trụ cao 18 m, đường kính 3 m và được sơn màu trắng. Bên trong ngọn hải đăng có cầu thang dẫn đến gần đỉnh hải đăng và có ban công để ngắm cảnh. Từ ban công này có thể vừa cảm nhận được những làn gió mát từ biển khơi, vừa ngắm nhìn được toàn cảnh thành phố biển Vũng Tàu, hoặc từ trên cao nhìn xuống ngay xuống dưới ngọn hải đăng chính là rừng hoa sứ rực sáng làm nổi bật nét kiên cố, vững chãi của ngọn hải đăng với kiến trúc và kiểu dáng cổ điển này. Nên đến với ngọn hải đăng vào ban đêm có thể thưởng ngoạn được hết vẻ đẹp của nó.
Để đến được ngọn hải đăng này có rất nhiều cách. Ô tô hoặc xe máy là phương tiện phổ biến. Ngoài ra, để có thể thử cảm giác mới lạ, một chút phiêu lưu đó chính là thả bộ trên con đường nằm bên triền núi dẫn lên ngọn hải đăng.
Đường lên Hải đăng trước 1975
Đường lên Hải đăng sau 1975 (2017)
 Hải Đăng Vũng Tàu có khuôn viên rộng hơn 3000 m2, gồm tháp hải đăng, nhà quản đăng và một số công trình khác. Kiến trúc ngọn hải đăng là một hình tháp trụ cao 18m, đường kính 3m, và được sơn màu  trắng toàn bộ, làm hải đăng nổi bật giữa màu xanh của cây cối, núi rừng. Bên trong ngọn hải đăng có cầu thang dẫn lên đỉnh của ngọn hải đăng và một ban công để đứng ngắm nhìn thành phố, hóng gió từ trên cao, cảm nhận vị biển, vị của thiên nhiên chan hòa.
 
Hải đăng trước 1975 (Pháp thuộc)
Hải đăng trước 1975 (Pháp thuộc)
Hải đăng trước 1975
Hải đăng sau 1975 (Ảnh Internet)
 
 
 
 
 Hải đăng sau 1975 (2017) 
Hải đăng sau 1975 (Ảnh Internet)
Kỹ thuật:
- Thiết kế: người Pháp
- Khánh thành: 15 tháng 8 năm 1862
- Chiều cao công trình: 18 m, chiều cao tính đến mặt biển: 170 m
- Công suất bóng đèn: 500W
- Bán kính quét sát trên biển: 55 km nhờ vào hệ thống lăng kính đồ sộ.

Photographer Tây Nam (St và Photo)

Wednesday, April 5, 2017

Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc 2008


Với chủ đề: “Đóng góp của Phật giáo trong việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, sáng 19 tháng 5 năm 2008 (15 tháng 4 năm Mậu Tí), tại Thành phố Vũng Tàu, Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc 2008, Phật lịch 2552 khai mạc với sự tham dự của gần 1000 đại biểu là chư tôn đức Giáo phẩm, đại diện cho các Tông phái Phật giáo trên tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Một số ảnh lưu trữ trong ngày 19/5/2008
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 Photographer Tây Nam

Tuesday, April 4, 2017

Giỗ tổ Hùng Vương (10 tháng 3 AL)

Chưa có dịp đi ra được tận nơi, thôi thì tranh thủ tìm hiểu trên Internet để ghi nhớ lại khỏi quên (Ảnh Internet).
Tổng thể đền Hùng tại Việt Trì - Phú thọ
Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn nhằm tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - nơi cội nguồn của dân tộc, của đất nước luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội Đền Hùng còn được gọi là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
 Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Trước đó hàng tuần, lễ hội đã diễn ra với nhiều hoạt động văn hoá dân gian và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với Lễ rước kiệu và dâng hương tại Đền Thượng.
 

Từ xa xưa Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người Việt. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi...”.
Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính.
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ”. Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp.
Khu di tích lịch sử đền Hùng gồm có đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng lăng vua Hùng.
Cổng chính đến đền Hùng
Đền thờ chính thờ Lạc Long Quân

Đến đền Hùng đầu tiên phải ghé qua đền Hạ. Từ chân núi Hùng rẽ qua Đại môn (cổng đền) leo qua 225 bậc thang xây bằng gạch lên đến đền Hạ và chùa (Thiên Quang tự). Đền được xây vào thế kỷ 15, tương truyền nơi đây bà Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm người con. Trước cửa đền Hạ có cây thiên tuế, nơi đây chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường về tiếp quản thủ đô có nói chuyện với chiến sĩ của đại đoàn quân tiên phong "Các vua Hừng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Đền Hạ và Chùa
Tiếp theo là đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu). Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc đá nữa là tới đền Trung. Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày. Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m, rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa.
Đền Trung
Tiếp theo là đền Thượng đền Hùng, từ đền Trung đi tiếp 102 bậc đá là đến đền Thượng, nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời Đất, Thần Núi và Thần Lúa. Đây cũng là nơi Thục Phán sau khi được vua Hùng thứ 18 truyền ngôi, dựng cột đá thề sẽ trông nom ngôi đền và giữ gìn cơ nghiệp nhà Hùng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh.
Đền Thượng
Lăng Hùng vương trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh
Tiếp theo đến đền Giếng. Từ lăng đi xuống, đền ở chân núi phía Đông Nam. Trong đền có giếng Ngọc, bốn mùa đầy nước, trong vắt soi gương được. Đền thờ Ngọc Hoa và Tiên Dung là con gái yêu của vua Hùng thứ 18 thường hay chải tóc và soi guơng ở giếng này. Ngày nay, ở gần Công Quán (nơi để tiếp khách thập phương) có Bảo tàng Hùng Vương được xây dựng tương đối lớn trưng bày nhiều hiện vật thời kỳ Hùng Vương dựng nước qua nền văn hoá thời đại đồ đá, đồ đồng, đồ sắt.
Đền Giếng

Nói đến ngày Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương thì phải nói đến sự tích "Bánh chưng bánh dày"



Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. 

Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho". 

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. 

Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào. 

Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành." 

Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái. 

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18. 

Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Bánh chưng
Bánh dày
Bánh chưng 2,5 tấn luộc 3 ngày liên tục
Tây Nam ST